Wednesday, September 28, 2016

Thái Lan đang xem xét những ca bị teo đầu ở thai nhi đầu tiên ở Đông Nam Á do vi rút Zika

Theo Bộ trưởng Sức khoẻ Cộng đồng Thái Lan, nhà chức trách nước này hiện đang điều tra bốn ca bệnh đầu nhỏ nghi do nhiễm vi rút Zika trên 3 trẻ và một thai nhi 36 tuần tuổi. Nếu được xác định là đúng, đây sẽ là những ca teo đầu do Zika đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.



Trong số những quốc gia Đông Nam Á có báo cáo gia tăng số người nhiễm vi rút Zika lây qua muỗi, Thái Lan hiện chiếm ngôi đầu bảng trong khu vực với 349 trường hợp được xác nhận, bao gồm 25 thai phụ.

Trong một cuộc phỏng vấn, Bộ trưởng Sức khỏe Cộng đồng Thái Piyasakon Sakolsatayadorn nói cần ít nhất hai ngày để có kết quả từ phòng thí nghiệm, và họ phải xem xét thật kỹ, vì việc nhiễm bệnh ở những ca này đã không được phát hiện trước đó. Ông cũng cho rằng vụ việc này rất nghiêm trọng và là một vấn đề nhạy cảm đối với đất nước Thái Lan.



Cũng theo Tổ chức Y tế Thế giới, hiện chưa có phương cách xét nghiệm cụ thể nào dùng để xác định xem thai nhi sinh ra có bị teo đầu hay không, ngoại trừ siêu âm trong 3 tháng cuối của thai kỳ mới có thể xác định được.

Theo Piyasakon, 3 trẻ này sinh ra bị đầu nhỏ và một trường hợp thai nhi bị đầu nhỏ đã được phát hiện nhờ siêu âm.

Giám đốc Ban Khoa học Dược lý của bộ, Apichai Mongkol tiết lộ trong số 4 người mẹ, có 2 người đã được chẩn đoán nhiễm Zika, còn 2 người kia chưa được xác định nhiễm Zika. 

Mối liên hệ giữa Zika và bệnh teo đầu lần đầu tiên được đưa ra ánh sáng vào năm ngoái tại Brazil, với hơn 1.600 ca bị teo đầu được xác nhận, và họ cho rằng có liên quan đến việc nhiễm Zika từ mẹ.

Các cơ quan Y tế của Hoa Kỳ đã kết luận việc nhiễm Zika ở thai phụ có thể gây ra bệnh teo đầu, một khiếm khuyết bẩm sinh với kích thước đầu em bé nhỏ hơn bình thường, có thể dẫn đến những tổn thương nghiêm trọng đối với sự phát triển của trẻ sau này. Theo WHO, các nhà khoa học trên thế giới nhất trí cho rằng Zika đồng thời gây bệnh Guillain-Barre, một triệu chứng thần kinh hiếm, gây liệt tạm thời ở người lớn.

Cũng theo WHO, những quốc gia mới có báo cáo những ca nhiễm Zika mới gồm có Philippines, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Singapore, ghi nhận là 393 ca nhiễm kể từ ca đầu tiên vào tháng 8, trong đó có 16 thai phụ.



Hiện có 2 chủng vi rút Zika chính, một là chủng châu Phi, chỉ thấy có ở vùng châu Phi, nơi vi rút này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1947, và chủng thứ hai là chủng vi rút Zika châu Á.

Hiện chưa có vắc-xin hay thuốc điều trị bệnh Zika, bệnh này có liên quan mật thiết với bệnh sốt xuất huyết và bệnh chikungunya (bệnh đi khom lưng do muỗi đốt gây sốt và đau khớp), bệnh Zika gây sốt nhẹ, phát ban và mắt đỏ.

Người ta ước tính có đến 80% người bị nhiễm không có triệu chứng gì, làm cho thai phụ rất khó biết liệu mình có bị nhiễm hay không.

Nguồn

Sunday, September 25, 2016

Người nghiện internet có nguy cơ mắc những căn bệnh về tâm thần

Thanh thiếu niên sử dụng internet quá độ dễ gặp phải những vấn đề về tâm thần, chẳnh hạn như bệnh ADHD (bệnh thiếu chú ý và quá hiếu động), lo lắng, uể oải, những rối loạn chức năng điều hành của não, hành động thiếu suy nghĩ và mất tập trung.


Các nhà khoa học thuộc trường đại học McMaster, Canada, vừa tiến hành một nghiên cứu về ảnh hưởng của internet và mạng xã hội trên 254 bạn trẻ ở lứa tuổi đại học. Các nhà nghiên cứu đã dùng một phương pháp kiểm tra độ nghiện internet - Internet Addiction Test (IAT) được phát triển và đưa vào sử dụng từ năm 1998 cùng với một hệ thống kiểm tra do họ tự thiết kế.

Theo trưởng nhóm nghiên cứu Michael Van Ameringen, giáo sư thuộc trường đại học McMaster, những ai có kết quả dương tính với IAT và hệ thống kiểm tra riêng của trường, đều "gặp rắc rối một cách nghiêm trọng trong các hoạt động thường nhật, công việc, ở nhà, ở trường và giao tiếp xã hội".

theo các tiêu chuẩn của IAT thì có 33 trong số 254 sinh viên bị nghiện internet. 55,8% số sinh viên tham gia khảo sát thú nhận rất khó cưỡng lại sức hấp dẫn của video trực tiếp, 47,9% không thể xa rời mạng xã hội, và 28,5% bị ám ảnh bởi những công cụ nhắn tin ngay lập tức.

Mặc khác, đối với hệ thống thẩm tra mới được phát triển bởi các nhà nghiên cứu, cho thấy số bạn trẻ bị nghiện internet nhiều hơn gấp ba lần. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng IAT được thiết kế trước khi điện thoại di động được dùng rộng rãi, có thể không còn đáng tin cậy trong bối cảnh hiện nay, vì nó có thể dẫn đến kết quả dương tính sai trong việc phân biệt người dùng internet bình thường với người nghiện internet.


Do bởi sự phát triển như vũ bảo của mạng xã hội, video trực tuyến, các công việc online, tin nhắn nhanh và những thứ tương tự khác trong 18 năm qua, việc dùng internet ngày nay đã khác xưa rất nhiều rồi, Van Ameringen cho biết.

Hệ thống thẩm tra mới cũng được thiết kế để hiểu rõ hơn việc dùng internet hiện tại. Qua đó, các nhà nghiên cứu nhận thấy 42,1% số sinh viên tham gia khảo sát có vấn đề về tâm thần do quá dựa dẫm vào mạng internet.

Van Ameringen cho rằng điều này đã dấy lên quan ngại số lượng tăng người nghiện internet đã bị đánh giá thấp một cách nghiêm trọng, và liệu sự phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ có gây ra những vấn đề tâm thần nào khác hay không.

Với những mối quan tâm trên, ông nhận định nghiên cứu đã đem lại một gợi ý thiết thực cho những bác sĩ điều trị bệnh tâm thần khi họ tập trung vào việc sử dụng internet một cách có vấn đề của bệnh nhân.

Van Ameringen cũng cho rằng để hiểu rõ hơn vấn đề nghiện internet và đi đến một giải pháp, cần có những nghiên cứu quy mô lớn với số lượng người tham gia nhiều hơn và những nhóm tham gia cũng đa dạng hơn.

Nghiên cứu trên được trình bày tại Đại hội Dược lý Thần kinh trường Cao đẳng châu Âu lần thứ 29 tại Vienna, Áo.

Theo Viện Cai Nghiện Illinois, những dấu hiệu của tình trạng nghiện internet bao gồm thời gian lên mạng kéo dài, những nỗ lực tách rời internet không thành công, sử dụng công nghệ để thoát khỏi những vấn đề của thực tại và luôn có cảm giác lo lắng, thất vọng chán chường và tội lỗi.

Nguồn

Saturday, September 17, 2016

Vi khuẩn HP có thực sự nguy hiểm

Đau dạ dày là một triệu chứng thường gặp ở nhiều người và nó có thể là dấu hiệu cho biết chúng ta đã bị viêm loét dạ dày.


Căn bệnh này rất dai dẳng, gây khó chịu trong nhiều
năm liền và có thể gây nên những đợt cấp tính rất nguy hiểm, thậm chí có thể phát triển thành ung thư dạ dày. Tiến sĩ - bác sĩ Nguyễn Ngọc Kha - Chuyên
Khoa II Nội Tiêu Hóa Gan Mật - Phòng khám
chuyên khoa Á Châu chia sẻ một số thông tin để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về căn bệnh này.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến viêm loét dạ dày nhưng nhìn chung, có 3 nguyên nhân chính. Thứ nhất là do dùng các thuốc giảm đau, chống viêm không chứa steroid, aspirin và một số loại thuốc khác. Thứ hai là do stress tâm lý, thói quen sử dụng rượu bia, thuốc lá, các loại thực phẩm gây kích thích niêm mạc dạ dày như trà, cà phê, ớt, tiêu, chanh, dấm... dẫn tới việc dạ dày tiết nhiều axít. Thứ ba và là nguyên nhân quan trọng nhất, là sự xuất hiện của 1 loại vi khuẩn có tên là Helicobacter Pylori trong dạ dày.


Phần lớn các ca viêm dạ dày - tá tràng đều do vi khuẩn HP gây ra và có thể tiến triển thành ung thư. Chúng có mặt trong cơ thể của một nửa dân số thế giới.

HP là một loại xoắn khuẩn gram âm, dài khoảng 2,5 mm và rộng 0,5 mm, có 4-6 roi nên dễ di chuyển trong lớp chất nhày của niêm mạc dạ dày và đây cũng là môi trường trú ngụ của chúng. Chính lớp chất nhày dạ dày đã bảo vệ cho vi khuẩn khỏi sự tác động của axit có trong dịch vị. HP có nhiều men để giúp chúng tồn tại, phát triển và gây bệnh tại dạ dày như men urease: một loại men thủy phân ure (chất có sẵn trong dạ dày) thành ammoniac và từ đó tạo ra môi trường axit thích hợp cho vi khuẩn phát triển nhưng lại gây tổn thương loét cho niêm mạc dạ dày. Khoảng 65-85% bệnh nhân viêm loét dạ dày có nhiễm HP và khi dùng thuốc diệt HP thì phần lớn khỏi viêm loét. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy HP là thủ phạm chính gây tổn thương niêm mạc dạ dày. Đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu trên thế giới khẳng định, HP không chỉ gây viêm loét mà còn có vai trò trong nhiều bệnh lý khác ở dạ dày - hành tá tràng như rối loạn tiêu hóa không loét, u lympho ác tính, ung thư.

Hiện nay, người ta ghi nhận có đến phân nửa dân số
thế giới bị nhiễm HP. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ
nhiễm HP khá cao: hơn 70% dân số. Như vậy, nếu người nào nhiễm HP cũng sẽ bị ung thư dạ dày thì dân số nước ta từ 90 triệu người chắc chỉ còn khoảng 25 triệu trong những năm tới! Ấn Độ và các quốc gia châu Phi có tỷ lệ nhiễm HP cao nhất thế giới, nhưng tỷ lệ ung thư dạ dày ở các nước này rất thấp. Trong khi đó, Nhật Bản và Hàn Quốc là có tỷ lệ ung thư dạ dày khá cao ở châu Á nhưng số người nhiễm HP lại rất thấp! Do vậy, nhiễm HP không phải là nguyên nhân duy nhất gây ung thư dạ dày.

Từ khi phát hiện ra vi khuẩn HP có khả năng sống trong dạ dày, người ta đã chứng minh mối liên quan giữa nhiễm HP lâu ngày làm biến đổi cấu trúc bình thường của niêm mạc dạ dày với sự phát sinh ung thư, nhưng tỷ lệ này rất thấp: khoảng 0,1% mỗi năm. Thật ra, vi khuẩn HP có rất nhiều chủng loại khác nhau. Nếu nhiễm chủng HP có độc lực yếu, thường không gây ra triệu chứng và rất hiếm khi phát triển thành ung thư. Chỉ khi nhiễm chủng HP có độc lực mạnh (mang gien CagA và VacA độc lực cao) mới có thể gây viêm và biến đổi nặng trên niêm mạc dạ dày, từ đó dẫn đến ung thư. Do vậy, không phải nhiễm chủng HP nào cũng bị ung thư dạ dày.

Nguy cơ không ở dạ dày mà ở miệng
Ngoài tác nhân vi khuẩn, sự phát sinh ung thư còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, chẳng hạn yếu tố di truyền ở từng bệnh nhân. Có những người mang gien di truyền dễ bị ung thư hơn người khác. Ngoài ra, còn có yếu tố huyết thống, cho nên nếu trong gia đình có người bị ung thư dạ dày cũng cần lưu ý theo dõi và tầm soát những người còn lại. Sức đề kháng miễn dịch ở từng bệnh nhân cũng là yếu tố góp phần hình thành ung thư hay không. Đặc biệt, chế độ ăn uống và sinh hoạt hàng ngày là yếu tố rất quan trọng đối với nguy cơ ung thư dạ dày. Người ta cho rằng, dân Ấn Độ có tỷ lệ ung thư dạ dày thấp là do ăn nhiều gia vị như nghệ, hành tây, tiêu đen… Ngoài ra, các thực phẩm giàu chất xơ, nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin C từ rau củ quả góp phần bảo vệ, chống các chất oxy hoá và hạn chế ung thư dạ dày.

Ngược lại, thói quen ăn mặn, sử dụng nhiều muối, ăn các loại khô, mắm, các loại thịt cá xông khói, nướng cháy dễ làm phát sinh ung thư hơn. Sử dụng hoá chất bảo quản, các chất kích thích tăng trọng… đang là các vấn đề nóng về an toàn thực phẩm, cảnh báo việc hình thành ung thư sau này. Bên cạnh đó, hút nhiều thuốc lá cũng được xem là yếu tố nguy cơ không chỉ cho ung thư phổi mà cả ung thư dạ dày.